Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Chia sẻ với bạn về vấn đề trong khủng hoảng, FPT vẫn lãi "khủng”

Thị trường Nhật chiếm 52% doanh thu của FPT Software trong năm 2011. Việc tái cấu trúc FPT Software với 6 đơn vị phần mềm chiến lược được tổ chức theo lĩnh vực kinh doanh, theo thị trường hoặc theo khách hàng và cơ cấu toàn diện các phòng ban chức năng hướng đến mục tiêu phát triển FPT Software trở thành công ty phần mềm VN đầu tiên đạt doanh số trên 100 triệu USD với 5.000 lập trình viên vào năm 2013. Điều này chứng tỏ phần mềm vẫn là một hướng đi chủ chốt của FPT.
Theo bảng xếp hạng của Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM thì FPT là một trong những DN có mức lãi khủng trên sàn 11 tháng qua, FPT lãi hơn 21 ngàn tỉ đồng. Có thể nói, trong bối cảnh kinh tế khó khăn thì việc lãi "khủng" của FPT làm nhiều DN thèm muốn. Bí quyết của FPT là gì?

Tập đoàn đã công bố kết quả kinh doanh 11 tháng với doanh thu đạt 21.856 tỉ đồng. Theo đó, lợi nhuận trước thuế đạt 2.149 tỉ đồng. Lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ đạt mức 1.364 tỉ đồng, tương đương EPS đạt 5.019 đồng.
Tham khảo nhà đầu tư về chiến lược kinh doanh
Theo Ban lãnh đạo FPT, sau khi thanh toán 1.800 tỉ trái phiếu huy động với lãi suất 7% cho trái chủ vào đầu tháng 10/2012, FPT không còn khoản vay dài hạn nào đáng kể. Theo đó, các mảng kinh doanh dịch vụ và xuất khẩu phần mềm của FPT vẫn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tốt. Mảng dịch vụ viễn thông, dịch vụ online, dịch vụ công nghệ thông tin có mức tăng trưởng 30% so với cùng kỳ. Lĩnh vực xuất khẩu phần mềm tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng trên 30%.
Được biết, trước đó, FPT đã giảm kế hoạch kinh doanh năm 2012 với doanh thu theo kế hoạch từ 31.300 tỉ đồng xuống 26.072 tỉ đồng; kế hoạch lợi nhuận trước thuế giảm từ 3.000 tỉ đồng xuống còn 2.547 tỉ đồng; EPS đạt 6.170 đồng/cổ phiếu.
Theo nhiều nhà đầu tư, con số 1 tỉ USD không gây nhiều ngạc nhiên với họ. Bởi ngay buổi gặp mặt nhà đầu tư đầu năm, FPT tuyên bố sẽ áp dụng chiến lược ở một số mảng kinh doanh để tạo đà tăng trưởng. Đó là đầu tư viễn thông vào khu vực Đông Nam Á, tập trung chiến lược bán lẻ.
Theo ông Phạm Thành Đức - Tổng Giám đốc FPT Retail, từ nay đến năm 2014, Công ty sẽ tiếp tục nâng số lượng cửa hàng. Hiện tại, FPT Retail đã mở được 36 cửa hàng trên toàn quốc. Về thị trường Campuchia, theo Chủ tịch FPT IS - Đỗ Cao Bảo, mảng phần mềm viễn thông của FPT IS đang chiếm lĩnh thị trường, có 3 mạng viễn thông lớn ở đây sử dụng. Ngoài ra, "Hệ thống Chính phủ điện tử và giải pháp bệnh viện đang có những tín hiệu tốt, hứa hẹn sẽ mang về doanh số và lợi nhuận cho FPT. Rồi FPT Telecom cũng có những bước đi đầu tiên tại đất nước chùa Tháp. DN cũng đang khảo sát và nghiên cứu thị trường để đẩy mạnh hoạt động vào năm sau. Năm 2012 FPT Software sẽ tăng trưởng khoảng 30% và sẽ giữ tốc độ này trong năm 2013".
Những chiến lược của FPT đề ra đã khiến các nhà đầu tư đặt niềm tin vào cổ phiếu này
Chị Nguyễn Thị Hà - nhà đầu tư trên sàn ABCS và là cổ đông của FPT cho biết, những chiến lược của FPT đề ra đã khiến các nhà đầu tư đặt niềm tin vào cổ phiếu này. Theo chị, trước hết phải nhìn nhận rằng, việc chuyển đổi từ mô hình quản trị công ty theo văn hóa "gia đình" sang văn hóa "hệ thống" là điều bình thường trong quá trình phát triển và chuyển đổi. Đây là thách thức chung cho một công ty đại chúng lớn, và FPT cũng không là ngoại lệ. "Tuy nhiên là các cổ đông, chúng tôi lại quan tâm hơn đến chi phí, lợi nhuận và giá trị công ty mang lại cho mỗi cổ đông".
Xác định hướng đi chủ chốt
Hiện tại, phần mềm vẫn xếp thứ 4 trong cơ cấu doanh thu của FPT, sau các mảng sản xuất và phân phối sản phẩm công nghệ; tích hợp hệ thống và viễn thông. Cơ cấu phân bố doanh thu của Công ty khá đều giữa các mảng kinh doanh.
Thị trường Nhật chiếm 52% doanh thu của FPT Software trong năm 2011. Việc tái cấu trúc FPT Software với 6 đơn vị phần mềm chiến lược được tổ chức theo lĩnh vực kinh doanh, theo thị trường hoặc theo khách hàng và cơ cấu toàn diện các phòng ban chức năng hướng đến mục tiêu phát triển FPT Software trở thành công ty phần mềm VN đầu tiên đạt doanh số trên 100 triệu USD với 5.000 lập trình viên vào năm 2013. Điều này chứng tỏ phần mềm vẫn là một hướng đi chủ chốt của FPT.
Năm 2011, mảng nội dung số của FPT (FPT Online) tăng trưởng mạnh nhất - tăng 129%, đến từ tăng trưởng doanh thu Game online và quảng cáo trực tuyến. Năm 2012, mảng này được kỳ vọng cao nhất (chiếm 59%) so với mảng sản xuất, phân phối sản phẩm viễn thông… Với nhu cầu gia tăng sử dụng mạng xã hội và giải trí qua game online thấy rõ, việc FPT ưu tiên phát triển mảng này là điều dễ hiểu…
Từ những phân tích trên cho thấy, dù nền kinh tế có khó khăn, nhưng bất kỳ DN nào xác định được hướng đi lấy nhà đầu tư làm trọng tâm để tham khảo chiến lược kinh doanh thì chuyện lãi khủng như FPT là chuyện thường tình…
Anh Nguyễn Thế Trung - Chuyên viên phân tích tài chính Công ty Kiểm toán AVA VN cho biết, chiến lược kinh doanh của FPT đáng để nhiều DN phải học tập. Đó là không cần phải sử dụng nhiều vốn, chỉ cần biết tận dụng vốn, và tham khảo ý kiến của các nhà đầu tư chiến lược để có thể tự xác định được những hướng đi cho mình và chuyện lãi khủng không nằm ngoài tầm tay của họ.

Liệu rằng cá tra có đã được "cứu" hay không?

Hiện Cửu Long vẫn có thể vay vốn được từ các ngân hàng nhưng mức lãi suất vẫn còn cao nên rất khó để làm ăn có lãi. Đầu vào đã khó, đầu ra cũng gian nan không kém vì hiện nay thủy sản Việt Nam đang phải đối phó với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, khi chính phủ những nước này đã có các chính sách hỗ trợ nuôi tôm phục vụ chế biến xuất khẩu. Do vậy, nhiều DN đã chấp nhận bán sản phẩm với giá bằng hoặc thấp hơn giá thành nhưng vẫn không có khách hàng.
Bộ Nông nghiệp phản pháo
Theo NHNN, 38.218 tỷ đồng đã được cho ngành cá tra vay trong 3 quý đầu năm 2012, dư nợ là 20.784 tỷ đồng. Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNN) lại cho rằng con số này hết sức phi lý, vì tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ của toàn ngành cá tra cả năm chỉ khoảng 28.000 tỷ đồng.
NHNN thì giải thích, các số liệu này được tổng hợp trên cơ sở báo cáo của các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể: doanh số cho vay trong 9 tháng đầu năm 2012 đối với lĩnh vực nuôi, trồng, thu mua chế biến cá tra đạt 38.218 tỷ đồng, doanh số thu nợ đạt 35.907 tỷ đồng; dư nợ cho vay đến ngày 30/9/2012 đạt 20.784 tỷ đồng. Số lượt khách hàng còn dư nợ tính đến thời điểm này là 5.962 hộ dân và 282 DN.
Trở lại câu chuyện "dốc tổng lực" cứu ngành cá tra, vào tháng 7/2012, trước những khó khăn quá cấp bách, VASEP, Bộ NN&PTNT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho một gói tín dụng khẩn cấp để giải cứu ngành cá tra.
Theo đề xuất, gói tín dụng này lên tới 9.000 tỷ đồng nhằm hỗ trợ người nuôi, DN chế biến tiêu thụ khoảng 800.000 tấn cá tra nguyên liệu đến hết năm 2012. Và rất "bất ngờ", sau kiến nghị này, tổng lượng tiền cho ngành cá tra vay theo báo cáo từ NHNN đã vượt... 4 lần gói tín dụng kiến nghị trước đó.
Thực chất cho vay
Mâu thuẫn
Theo VASEP, tổng số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra cả nước chỉ khoảng 160 doanh nghiệp, trong đó khoảng 30% gần như ngừng hoạt động.
Báo cáo từ NHNN lại cho biết có tổng cộng 282 doanh nghiệp chế biến cá tra vay vốn ngân hàng. 
Theo VASEP, tổng số doanh nghiệp (DN) chế biến xuất khẩu cá tra cả nước chỉ khoảng 160 DN, trong đó khoảng 30% gần như ngừng hoạt động.
Thế nhưng báo cáo từ NHNN lại cho biết có tổng cộng 282 DN chế biến cá tra vay vốn ngân hàng. Còn với 6.000 hộ dân nuôi cá tra, phần lớn hộ có tiền tự đầu tư không cần vay vốn, và hàng ngàn hộ nuôi nhỏ lẻ không vay được vốn.
Ông Dương Ngọc Minh, Phó chủ tịch VASEP phân tích thêm, nếu ngành cá tra đã vay 38 ngàn tỷ đồng, mà kim ngạch thu về của toàn ngành dự báo trong năm nay chỉ khoảng 1,7 tỷ USD, thì thật sự hiệu quả kinh tế của ngành quá kém, cần phải xem lại!
Trong khi đó, phản ảnh từ các DN về việc khó tiếp cận vốn vay ngân hàng hoàn toàn có thật. Ông Lâm Ngọc Hải, Phó giám đốc Công ty TNHH Thủy hải sản Sài Gòn - Mê Kông, cho biết, từ đầu năm tới nay, do thiếu vốn để mua nguyên liệu nên sản lượng xuất khẩu các mặt hàng cá tra, ba sa của công ty đã giảm 5% so với cùng kỳ năm 2011.
Hiện công ty đang có rất nhiều đơn hàng cho những ngày cuối năm 2012 và quý I/2013, nhưng vì không đủ nguồn vốn mua nguyên liệu nên chỉ có thể nhận những đơn hàng vừa phải chứ không thể ký các hợp đồng lớn.
Không chỉ DN ngành cá tra, ngay cả các DN ngành tôm cũng gặp khó trong khâu vay vốn. Bà Nguyễn Thị Hồng Anh, Công ty CP Thủy sản Cửu Long chia sẻ, nguồn vốn vay ngân hàng để mua nguyên liệu hạn chế nên tính đến thời điểm hiện nay sản lượng tôm xuất khẩu của công ty đã giảm khoảng gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái.
Hiện Cửu Long vẫn có thể vay vốn được từ các ngân hàng nhưng mức lãi suất vẫn còn cao nên rất khó để làm ăn có lãi. Đầu vào đã khó, đầu ra cũng gian nan không kém vì hiện nay thủy sản Việt Nam đang phải đối phó với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, khi chính phủ những nước này đã có các chính sách hỗ trợ nuôi tôm phục vụ chế biến xuất khẩu. Do vậy, nhiều DN đã chấp nhận bán sản phẩm với giá bằng hoặc thấp hơn giá thành nhưng vẫn không có khách hàng.
Đặt vấn đề nghi vấn về thực chất doanh số cho vay từ ngân hàng, VASEP cho rằng, có thể các chi nhánh cấp dưới của các ngân hàng cho vay sai mục đích, bây giờ lại hướng dẫn người vay làm đề án nuôi cá tra, vì đây là lĩnh vực đang được ưu tiên, để biến nợ xấu đó thành nợ con cá tra.
Cũng có thể, nhiều DN cá tra vay vốn nhưng không đầu tư vào nuôi và chế biến cá tra, mà dùng tiền đó đầu tư vào những lĩnh vực khác, nếu vậy thì phải xử lý các doanh nghiệp này.
Theo tính toán của nhiều DN xuất khẩu thủy sản, so với đầu năm 2011, hiện chi phí đầu vào của hoạt động chế biến xuất khẩu thủy sản tăng khoảng 30%. Trong khi đó, giá sản phẩm thủy sản xuất sang các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... đều không tăng, thậm chí có lúc giảm.
Điều đáng nói là việc điều chỉnh lãi suất ngân hàng diễn ra khá chậm chạp, khiến DN phải xoay xở trả nợ vay với lãi suất cao và ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu tình trạng này còn tiếp tục tiếp diễn thì bước sang năm 2013 ngành xuất khẩu thủy sản sẽ còn đối mặt với nhiều thách thức hơn nữa.

Khám phá thực trạng bất động sản du lịch: Bên tháo chạy, bên nhập cuộc

Tình hình rao bán dự án và gọi vốn đầu tư vào các khách sạn, khu nghỉ dưỡng cũng đồng thời diễn ra ở TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu (BR - VT), Hà Nội và dĩ nhiên là không thể thiếu "thủ phủ resort" Bình Thuận. Trên các sàn mua bán dự án trực tuyến, du lịch - nghỉ dưỡng là lĩnh vực đứng thứ hai (sau các BĐS về nhà ở) về tìm đối tác mua.
Rao bán "lúa non"
Những nhà đầu tư non vốn do không thể cầm cự lâu hơn được, buộc phải buông tay khỏi những tài sản mà trước đây họ phải tranh giành để "xí phần".
Nguồn cung khách sạn Đà Nẵng khoảng 3.300 phòng, tăng 7% theo quý và 11% theo năm. Do mùa cao điểm cho khách nội địa kết thúc trong quý 3/2012, công suất thuê giảm -7 điểm phần trăm so với quý trước. Tuy nhiên, giá thuê lại tăng lên 2.100.000 VNĐ/phòng/đêm do có sự tăng giá mạnh của một số khách sạn 5 sao. Từ quý IV/ 2012 trở về sau, Đà Nẵng có 48 dự án khách sạn, trong đó 26 dự án sẽ cung cấp khoảng 7.500 phòng. 
Tính đến quý III/2012, Nha Trang có 17 dự án khách sạn 3 đến 5 sao tương lai được ghi nhận. Các dự án này sẽ cung cấp cho thị trường hơn 2.700 phòng. 
(Theo Savills Việt Nam)
Trên trang vietnamproperties, một vài thông báo tìm nhà đầu tư (NĐT) lớn để bán lại dự án các khu nghỉ dưỡng (resort) ở miền Trung được đăng tải khá đầy đủ và chi tiết.
Cụ thể như tin tìm NĐT cho resort 5 sao 17 ha ở quận Ngũ Hành Sơn (TP. Đà Nẵng), gần các khu Crown Casino và Furama Resort.
Đây là dự án đã được giao đất từ năm 2007 nhưng đến nay vẫn chưa triển khai. Dự án được chia thành hai khu: khu 5,1 ha (chiếm 30% diện tích) được sở hữu vĩnh viễn, NĐT có thể xây biệt thự để bán như Indochina Park Hyatt hoặc Ocean Villa của VinaCapital; phần thứ hai có quy mô 11,9 ha được thuê trong thời hạn 50 năm (có thể gia hạn thêm 20 năm nữa) để xây resort.
Chủ sở hữu của dự án này mong muốn tìm đối tác để cùng phát triển hoặc là bán lại toàn bộ với mức giá 850 tỷ đồng và cam kết sẽ trả "hoa hồng" cao cho người nào giới thiệu bên mua thành công.
Ông Nguyễn Huy Thăng, trợ lý Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đầu tư Du lịch Hà Nội Non Nước, cho rằng, trong tình hình khó khăn như hiện nay, không ít dự án BĐS du lịch ở Đà Nẵng phải giãn tiến độ hoặc trì hoãn.
Ngay như doanh nghiệp của ông đang sở hữu dự án khu phức hợp nghỉ dưỡng ở quận Ngũ Hành Sơn, nếu có NĐT quan tâm, doanh nghiệp sẵn sàng "bắt tay" để triển khai dự án hoặc NĐT muốn mua toàn bộ dự án vẫn có thể thương lượng.
Tình hình rao bán dự án và gọi vốn đầu tư vào các khách sạn, khu nghỉ dưỡng cũng đồng thời diễn ra ở TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu (BR - VT), Hà Nội và dĩ nhiên là không thể thiếu "thủ phủ resort" Bình Thuận. Trên các sàn mua bán dự án trực tuyến, du lịch - nghỉ dưỡng là lĩnh vực đứng thứ hai (sau các BĐS về nhà ở) về tìm đối tác mua.
Cụ thể, trong số trên 20 dự án được rao bán thì đã hơn 2/3 trong số đó là chuyển nhượng resort và khách sạn, chủ yếu ở Bình Thuận và BR - VT. Nếu Bình Thuận đa phần rao bán resort 3 sao thì BR - VT lại tìm đối tác cho hạng mục khách sạn, resort 4 - 5 sao.
Hầu hết, các BĐS này vẫn trong giai đoạn chưa triển khai. Nếu trước đây, đường ven biển tại TP. Vũng Tàu là nơi được các NĐT TP.HCM "săn đón" để xây khách sạn thì nay, dọc đường Trần Phú, đường vòng Núi Lớn..., nhiều chủ đầu tư không ngại ngần treo bảng sang nhượng toàn bộ hoặc cần NĐT tài chính cho dự án. Được biết, các mức giá rao bán các BĐS du lịch dao động từ 10 - 500 tỷ đồng.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, năm 2012 là thời điểm mà thị trường BĐS du lịch có nhu cầu bán nhiều hơn hết. Lý do là bởi các dự án này có quy mô về vốn lớn, đòi hỏi các chủ đầu tư phải đảm bảo về năng lực tài chính.
406Tỉnh Bình Thuận hiện có 406 dự án BĐS du lịch còn hiệu lực (tính đến giữa năm 2012), trong đó có 157 dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Riêng TP.Phan Thiết là nơi tập trung nhiều dự án nhất với 225 dự án.
Điều này gây khó cho NĐT nhỏ hoặc các doanh nghiệp có mục đích "xí phần" tìm cơ hội để sang nhượng lại.
Không chỉ thông qua các đại lý, các sàn giao dịch trực tuyến trong nước, nhiều dự án lớn, đặc biệt là resort, khách sạn 5 sao thường tiếp cận các đối tác một cách có chọn lọc hoặc thông qua các mạng mua bán dự án "ngoại".
Chẳng hạn, từ tháng 8/2012, trên một trang chuyên bán khách sạn quốc tế có rao bán một khách sạn 5 sao, gần sân bay Tân Sơn Nhất với giá chào 50 triệu USD.
Hay như trường hợp của resort cao cấp mà gia đình tài tử nổi tiếng Hollywood Brad Pitt đã lưu trú trong mùa Hè năm 2012 được giới BĐS kháo nhau rằng, vẫn đang âm thầm tiếp cận các NĐT có nguồn tài chính mạnh để chuyển nhượng, kế hoạch này cũng đã "chạy" được gần hai năm nay.
Cơ hội "ở đáy"
Cơ hội "săn mua" và "săn bán" được chia đều trong một thị trường bất động sản giảm giá gần như đã chạm đáy.
Các quỹ niêm yết ở nước ngoài đã chứng kiến sự xuống dốc về kinh tế của Việt Nam do lạm phát cáo, nợ xấu tăng vọt, giá BĐS tụt dốc và thị trường chứng khoán ế ẩm.
Nhiều quỹ đầu tư chuyên về thị trường Việt Nam liên tục được giao dịch với mức giá thấp hơn nhiều so với giá trị tài sản ròng, các công ty quản lý quỹ đã và đang chịu áp lực từ cổ đông khiến họ buộc phải tìm cách thoái vốn khỏi các dự án, dù còn nhiều tiềm năng.
Một số quỹ niêm yết tại London được cổ đông cho phép tiếp tục duy trì hoạt động sau khi cam kết sẽ không thực hiện thêm các giao dịch đầu tư mới và chuyển lại toàn bộ tiền mặt thặng dư cho các nhà đầu tư trong vòng ba năm tới.
155Theo Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện có khoảng 155 dự án BĐS du lịch (khách sạn, resort...).
Vì vậy, không chỉ resort, khách sạn còn nằm trong "kén", các thương vụ mua bán khách sạn, khu nghỉ dưỡng 5 sao đang hoạt động luôn được "chăm sóc" kỹ lưỡng.
Đầu tháng 12 này, thị trường xôn xao chuyện tờ Financial Times đăng tin "VinaCapital rao bán 50% cổ phần đang sở hữu tại khách sạn Sofitel Metropole, Hà Nội thông qua Jones Lang LaSalle làm môi giới".
Cũng như thương vụ bán 70% cổ phần tại khách sạn 5 sao Hilton Hà Nội vào năm 2009, việc bán tài sản này của Tập đoàn VinaCapital khiến giới nhà đất "đoán già đoán non" là tại sao VinaCapital bán vào thời điểm thị trường đang xuống?
Đối tượng mua mà công ty môi giới tiếp cận sẽ là một nhà đầu tư nước ngoài hay sẽ lặp lại màn giằng co như thời Hanel và Lotte "chạy đua" mua lại khách sạn Daewoo Hà Nội? Metropole được cho là có giá trị trên 80 triệu USD, vậy giá bán sẽ đạt ngưỡng nào?
Cổ phần trong khách sạn Metropole Hà Nội là khoản đầu tư lớn thứ nhì của Vietnam Opportunity, Quỹ hiện có giá trị vốn hóa thị trường ở mức khoảng 550 triệu USD.
Liên quan đến vấn đề này, ông Don Lâm, Tổng giám đốc Tập đoàn VinaCapital, cho biết, trước hết, VinaCapital là quỹ đầu tư, việc thoái vốn ở khoản đầu tư này để đầu tư vào nơi khác là chuyện bình thường. "Tiền không đi đâu hết mà để tái đầu tư”, ông nói.
Đối với khách sạn Metropole, VinaCapital có thuê đơn vị tư vấn để nghiên cứu thị trường nhằm định xem giá trị của khách sạn là bao nhiêu chứ chưa chính thức thông báo rao bán. Tuy nhiên, những ai đưa ra mức giá hợp lý trong khoản giá trị này, VinaCapital sẽ bán.
Đại diện công ty quản lý quỹ này dẫn giải, họ không muốn nhấn mạnh đến bất kỳ một dự án nào vì VinaCapital hiện đang đầu tư vào gần 100 công ty, năm 2013 sẽ có nhiều cơ hội để đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu có tiềm năng tốt và tất nhiên họ phải chuẩn bị vốn.
Don cũng tiết lộ, hiện tại, VinaCapital đang đàm phán với chủ đầu tư một khách sạn 5 sao để mua lại. "Tại sao chúng tôi tiếp tục mua vào thời điểm này? Tại Hà Nội, VinaCapital đã có ba khách sạn 5 sao, TP.HCM chỉ có một.
Đã là nhà đầu tư, mình phải giảm thiểu rủi ro bằng cách bán bớt khách sạn ở Hà Nội và đầu tư thêm một khách sạn 5 sao tại TP.HCM", ông Don Lâm cho biết.
Một số NĐT nước ngoài đã và đang tìm kiếm cơ hội mua các tài sản là bất động sản bị giảm giá ở Việt Nam.Theo một nhà môi giới, hiện nay, tuần nào cũng có các nhà đầu tư từ Singapore hay Nhật Bản tới tìm hiểu các dự án đang rao bán. Tuy nhiên, họ vẫn chần chừ trước cơ cấu sở hữu phức tạp và thực trạng bất ổn về pháp lý liên quan đến BĐS cao cấp tại Việt Nam.
Bơi trong dòng tiền cạn
Cơ hội mười mươi trước các tài sản 5 sao bán tháo nhưng khi dòng tiền đã cạn thì bên bán vẫn áp đảo bên mua.
Năm 2007, trong tất cả các phân khúc của thị trường BĐS, cầu luôn vượt cung, nhưng hai năm gần đây, xu hướng này bị đảo ngược. Chẳng hạn, trên các sàn giao dịch dự án trực tuyến, tại TP.HCM, nếu bên chào bán có 200 dự án thì bên tìm mua chỉ cán mức hơn 40.
Sự chênh lệch này cũng phần nào phản ánh được tình hình giao dịch trên thị trường. Giá cả luôn là tiêu chí quan trọng để bên mua và bán gặp nhau. Tuy nhiên, ngay trong thời điểm này, đặc tính của tài sản lại được ưu tiên.
Theo TS. Sử Ngọc Khương, Giám đốc Bộ phận Đầu tư thuộc Công ty Savills Việt Nam, dù bên mua là NĐT nước ngoài hay trong nước thì khi tiến hành thương vụ mua một BĐS du lịch, họ đều quan tâm đến các tài sản đang có doanh thu.
Tuy dự án được chào bán khá nhiều và có nhiều mức giá khác nhau nhưng việc bắt đầu với một dự án mới sẽ trải qua nhiều quy trình và có thể gặp một số khó khăn và rủi ro trong giai đoạn phát triển dự án.
Trong khi đó, với bên bán, chuyện bán đi tài sản không hẳn đã nói lên họ đang có vấn đề về mặt tài chính, mà đôi khi bản chất của họ là NĐT, thấy có cơ hội ở nơi khác thì sẽ thoái vốn nơi này để đầu tư thêm.
Bên mua các khách sạn hay resort đang hoạt động thường chú ý đến các yếu tố như: hiệu quả kinh doanh, thu nhập ròng, mật độ sử dụng phòng, tiền thuê phòng và phân loại khách (tỷ lệ khách nội địa và quốc tế, phân khúc khách hàng...). Ngoài ra, với các khách sạn tiêu chuẩn 5 sao, do phải thuê đất nên bên mua cũng quan tâm thời hạn mà khách sạn này còn hoạt động là bao lâu...
Thực tế, không riêng gì các thương vụ "5 sao" mà việc mua bán các BĐS du lịch nói chung thường kéo dài bởi giá trị lớn nên cả bên bán và mua đều cân nhắc kỹ. Hơn nữa, vào thời điểm này, chuyện tiếp thị cũng không hề đơn giản.
71
Theo Sở Xây dựng TP.HCM, trên địa bàn TP hiện có 71 khách sạn từ 3 - 5 sao.
Theo một nguồn tin riêng của chúng tôi, hiện khu resort ở Lộc An (Bà Rịa) cũng đã rao bán và phải thông qua nhiều đơn vị môi giới cùng lúc nhưng mấy tháng qua vẫn chưa có kết quả khả quan, vì điều NĐT đòi hỏi không phải là giá 4 hay 5 triệu USD mà là hiệu quả kinh doanh của khu này trong quá trình hoạt động, lượng khách tăng giảm hằng năm, những chương trình đưa khách đến với khu nghỉ dưỡng...
Nói về mức độ hấp dẫn của hạng mục BĐS du lịch, theo ông Cao Thanh Hoàng, Tổng giám đốc Công ty Quản lý Quỹ đầu tư MHK (đang quản lý hai quỹ đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam), giá trị đầu tư vào khách sạn là tương đối lớn nhưng thu hồi vốn lại dài, trong khi thời điểm hiện nay, có quá nhiều cơ hội để các NĐT tiếp cận với các khoản đầu tư tốt hơn nên chuyện "đổ tiền" vào kênh này thực chất sẽ là cuộc đua của những người có "thâm niên" trong ngành.
Còn TS. Sử Ngọc Khương thì nhận định, dù thị trường đang đối diện với nhiều khó khăn nhưng vẫn có những phân khúc, những khu vực sẽ tiếp tục phát triển.
Theo đó, Đà Nẵng là "đòn gánh" giữa Hà Nội và TP.HCM nên đây là thị trường nghỉ dưỡng đầy tiềm năng; trong khi đó, tại TP.HCM, dù có không ít dự đoán rằng hoạt động của các khách sạn 5 sao sẽ khó khăn do cung vượt cầu, nhưng thực chất, các khách sạn 5 sao đạt chuẩn quốc tế vẫn còn chưa đủ đáp ứng nhu cầu thị trường trong tương lai.

Đi tìm câu trả lời cho: Vì sao lợi nhuận của VNPT “tuột dốc”?

Thêm nữa, theo ông Trận, do trong năm qua, VNPT cố gắng đầu tư, mở rộng mạng lưới với những dịch vụ mới, giá trị lớn, nhưng doanh thu từ dịch vụ mới chưa bù đắp lại được khoản đầu tư, mà chủ yếu làm nhiều cho các mục tiêu xã hội, an ninh quốc phòng, vùng sâu vùng xa, viễn thông công ích…, trong khi VNPT lại chưa làm đề xuất mới để có chế độ bù vào những đầu tư lớn này.
Nếu so sánh với năm 2011, lợi nhuận năm 2012 của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã giảm 1.500 tỷ đồng! Vì sao lợi nhuận của tập đoàn được coi là “ăn nên làm ra” trong nhiều năm qua lại đi xuống mạnh đến như vậy?
Năm 2011, theo số liệu báo cáo của VNPT, lợi nhuận của tập đoàn này đạt 10.000 tỷ đồng, tăng 6,15% so với năm 2010. Còn lợi nhuận năm 2012, theo Chủ tịch Hội đồng Thành viên VNPT Phạm Long Trận, chỉ đạt 8.500 tỷ đồng.
Vì sao lợi nhuận của tập đoàn được coi là “ăn nên làm ra” trong nhiều năm qua lại đi xuống mạnh đến như vậy? Dù rằng “trong năm 2012, VNPT đã đưa ra những kế hoạch để doanh nghiệp ngày càng phát triển tốt hơn nhưng kết quả đạt được không tốt và Tập đoàn đã có cố gắng rất nhiều”, như chia sẻ của Chủ tịch Phạm Long Trận.
Chủ tịch Hội đồng Thành viên VNPT Phạm Long Trận
Ông Trận cho rằng, mức tăng trưởng lợi nhuận của VNPT năm 2012 là kém, tuy “ở mức trung bình của doanh nghiệp viễn thông trên thế giới, nhưng kém so với nhiều doanh nghiệp viễn thông khác làm ăn tốt”.
Một loạt nguyên nhân dẫn đến việc VNPT đạt mức tăng trưởng kém đã được ông Phạm Long Trận lý giải:
Thứ nhất, theo vị Chủ tịch VNPT, 2012 là năm đặc biệt khó khăn, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có VNPT. Vì điều kiện kinh tế khó khăn nên đã tác động đến sản xuất kinh doanh, đến khả năng phát triển của doanh nghiệp, khiến kết quả kinh doanh của VNPT không được như mong muốn.
Theo ông Trận, khách hàng, thuê bao của VNPT “có tính chất đặc thù”, nhiều doanh nghiệp là thuê bao của VNPT trong năm qua làm ăn thua lỗ, phá sản nên đã tác động rất lớn tới doanh thu của tập đoàn.
Thứ hai, do điện thoại cố định là mạng chủ lực của VNPT từ xưa đến nay, mang lại nhiều doanh thu và đóng vai trò quan trọng, nhưng đến giai đoạn hiện nay đã giảm đi nhanh chóng. Doanh thu cũng từ đó giảm theo.
Lãnh đạo VNPT phân tích, VNPT là doanh nghiệp phát triển từ rất lâu cho nên mạng lưới, mô hình tổ chức chủ yếu dựa trên cấu trúc của mạng điện thoại cố định, hiện viễn thông các tỉnh, điện thoại cố định không có lợi nhuận mà đang “sống” bằng di động.
Vì thế, vấn đề lớn của tập đoàn là “phải ép những người trước đây làm cố định ở các tỉnh thành phối hợp với kinh doanh của điện thoại di động để vừa nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao doanh thu, vừa giải quyết công ăn việc làm”.
Nguyên nhân thứ ba là vì VNPT phải hoàn thành các nhiệm vụ viễn thông công ích, những dịch vụ Nhà nước giao trong lĩnh an ninh, chống thiên tai, bão lụt… nên cũng tác động đến tăng trưởng lợi nhuận, doanh thu.
Dù có nhiều nguyên nhân, nhưng Chủ tịch Phạm Long Trận cũng thẳng thắn cho rằng, tác động lớn nhất là tự bản thân VNPT, vì VNPT tiền thân là một doanh nghiệp Nhà nước nên mô hình cấu trúc, bộ máy, kể cả phương pháp, thái độ phục vụ còn đâu đó mang tính chất không được đổi mới cho nên chậm chạp, phục vụ không tốt.
Đặc biệt mô hình tổ chức là vấn đề rất lớn, tác động đến sản xuất kinh doanh, lợi nhuận. 
Thêm nữa, theo ông Trận, do trong năm qua, VNPT cố gắng đầu tư, mở rộng mạng lưới với những dịch vụ mới, giá trị lớn, nhưng doanh thu từ dịch vụ mới chưa bù đắp lại được khoản đầu tư, mà chủ yếu làm nhiều cho các mục tiêu xã hội, an ninh quốc phòng, vùng sâu vùng xa, viễn thông công ích…, trong khi VNPT lại chưa làm đề xuất mới để có chế độ bù vào những đầu tư lớn này.
“Với những hạn chế trên, kết quả doanh thu năm 2012 của VNPT chưa đạt được như mong muốn, chỉ đạt 130.500 tỷ đồng doanh thu, tăng trưởng chỉ 10% so với năm 2011. Lợi nhuận cũng ít, đạt 8.500 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước đảm bảo là 7.500 tỷ đồng”, ông Trận nói với “âm hưởng” không vui.
Đó là những gì của năm 2012. Năm 2013, theo Chủ tịch VNPT, do điều kiện kinh tế còn khó khăn và khó được cải thiện nhiều nên VNPT “chỉ dám” đặt mục tiêu tăng trưởng doanh thu 10% so với năm 2012, là “mức tăng trưởng nếu đạt được cũng tốt lắm rồi”.
Nhưng lãnh đạo VNPT kỳ vọng, với mô hình sản xuất kinh doanh mà VNPT đã gửi lên Chính phủ và Bộ Thông tin và Truyền thông - dù hiện tại chưa có tín hiệu từ Chính phủ và cơ quan quản lý để VNPT có thể bắt tay vào triển khai, nhưng “với mô hình mới thay cho mô hình còn nhiều hạn chế lâu nay, VNPT sẽ có điều kiện đổi mới sản xuất kinh doanh, có điều kiện phát triển hơn, hiệu quả lợi nhuận cao hơn”, Chủ tịch Phạm Long Trận nói.

Chia sẻ cùng bạn về du lịch: Bất lực nạn "chém" giá

Nhiều khách sạn vẫn giữ lại một số phòng để chờ tăng giá vào đúng các ngày lễ hoặc cận lễ. Như vậy, giá mỗi phòng nghỉ bình dân (loại 2 giường) tại khu vực trung tâm Đà Lạt trong dịp lễ này có thể được nâng lên gấp nhiều lần. Trong khi đó, các khách sạn từ 3 - 4 sao trở lên cam kết giữ nguyên giá và đã được khách du lịch, công ty lữ hành đặt kín phòng từ nhiều tuần trước.
"Lên rừng, xuống biển" luôn được lựa chọn cho các kỳ nghỉ có ngày nghỉ kéo dài. Tết Dương lịch năm nay, Đà Lạt và Phú Quốc là hai điểm đến được dự báo là đông nhất.
Qua khảo sát nhiều khách sạn tại khu vực trung tâm tại thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng), đa số các khách sạn đều thông báo đã kín chỗ trong dịp nghỉ Tết dương lịch 2013. Huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang cũng không còn phòng phục vụ du khách trong dịp này.
Một số khách sạn trên thuộc khu vực trung tâm TP. Đà Lạt, đã nâng giá phòng cao hơn bình thường từ 25 - 100%. Cụ thể, giá phòng loại thường ở khách sạn đạt chuẩn từ bình quân 400.000 đồng/ngày đã tăng lên 600.000 - 800.000 đồng/ngày.
Một số khách sạn ở khu trung tâm thông báo hết phòng nhưng khi khách chấp nhận giá cao từ 700.000 - 800.000 đồng/phòng/ngày, thậm chí có nơi đưa ra giá 1 triệu đồng/phòng/ngày, vẫn được đáp ứng.
Nhiều khách sạn vẫn giữ lại một số phòng để chờ tăng giá vào đúng các ngày lễ hoặc cận lễ. Như vậy, giá mỗi phòng nghỉ bình dân (loại 2 giường) tại khu vực trung tâm Đà Lạt trong dịp lễ này có thể được nâng lên gấp nhiều lần. Trong khi đó, các khách sạn từ 3 - 4 sao trở lên cam kết giữ nguyên giá và đã được khách du lịch, công ty lữ hành đặt kín phòng từ nhiều tuần trước.
Mặc dù chính quyền TP. Đà Lạt và ngành du lịch đã nhiều lần lập đoàn kiểm tra, giám sát, xử lý các khách sạn "găm phòng, tăng giá”, vận động các khách sạn giữ giá hoặc tăng giá hợp lý nhưng việc "chặt chém" vẫn diễn ra mỗi dịp lễ, Tết.
Riêng huyện đảo Phú Quốc, không phải năm nay, khi Cảng hàng không quốc tế đi vào hoạt động, mới có tình trạng thiếu phòng nghỉ cho du khách. Hàng năm, vào các dịp lễ, Tết, khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng tại đây cũng gặp khó khi tìm chỗ nghỉ phù hợp với túi tiền.
Chủ một nhà nghỉ tại thị trấn Dương Đông, cho biết, nhà nghỉ có 18 phòng, cách đây 1 tháng, khách đã đặt hết chỗ cho những ngày Tết Dương lịch, còn gần 2 tháng nữa mới đến Tết Nguyên đán nhưng khách cũng đã đặt hết chỗ.
Theo lý giải của chủ nhà nghỉ này, do nhà nghỉ có giá bình dân, chỉ từ 350 - 450.000 đồng/phòng, phù hợp với túi tiền của mọi người nên hết chỗ trước. Các khách sạn giá từ 900 - 1 triệu đồng/phòng khả năng vẫn còn phòng nghỉ.
Trong khi đó, quản lý một khách sạn có quy mô tại Dương Đông cũng cho biết, Tết Dương lịch khách sạn đều không còn phòng để đáp ứng nhu cầu của khách. Không những vậy, dịp Tết Âm lịch, khách cũng đã đặt hết, không còn phòng.
Theo báo cáo của Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Kiên Giang, toàn huyện đảo Phú Quốc hiện có gần 100 cơ sở lưu trú, với khoảng 2.000 phòng, có khả năng tiếp nhận khoảng 2.500 khách lưu trú mỗi ngày, trong đó có 16 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 - 4 sao.
Năm 2012, Phú Quốc đón trên 450.000 khách du lịch (tăng 3,4 lần so với năm 2005), trong đó khách quốc tế có khoảng 132.000 người (tăng 5 lần). Song, số cơ sở lưu trú chỉ tăng 3 lần so với năm 2005. Hiện nay, cảng hàng không quốc tế đã đi vào hoạt động, mở ra cơ hội thu hút các nhà đầu tư và khách du lịch, nhất là lượng khách quốc tế sẽ tăng lên.

Giới thiệu với bạn về sự phê duyệt đề án tái cơ cấu Tổng công ty cà phê Việt Nam

Theo đề án, duy trì công ty mẹ - Vinacafe là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 13 đơn vị phụ thuộc công ty mẹ; 25 doanh nghiệp do công ty mẹ - Vinacafe nắm giữ 100% vốn điều lệ; 2 doanh nghiệp do công ty mẹ - Vinacafe nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; 4 doanh nghiệp do công ty mẹ - Vinacafe nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ...
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tổng công ty Cà phê Việt Nam (Vinacafe) giai đoạn 2012-2015.
Mục tiêu của đề án nhằm bảo đảm Vinacafe có cơ cấu hợp lý, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh trên cơ sở năng suất, chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm càphê; phát huy thương hiệu Vinacafe, có uy tín trong nước và thế giới; tích cực tham gia bảo đảm an sinh xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và khu vực Tây Nguyên.
Theo nội dung tái cơ cấu vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ngành nghề kinh doanh chính của Tổng công ty càphê Việt Nam là trồng, sản xuất, chế biến và kinh doanh cà phê. Bên cạnh đó, Vinacafe được kinh doanh các ngành, nghề có liên quan phục vụ trực tiếp ngành, nghề kinh doanh chính là sản xuất đồ uống từ sản phẩm cà phê.
Vốn điều lệ của Tổng công ty cà phê Việt Nam sẽ do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định sau khi có ý kiến thỏa thuận của Bộ Tài chính.
Theo đề án, duy trì công ty mẹ - Vinacafe là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 13 đơn vị phụ thuộc công ty mẹ; 25 doanh nghiệp do công ty mẹ - Vinacafe nắm giữ 100% vốn điều lệ; 2 doanh nghiệp do công ty mẹ - Vinacafe nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; 4 doanh nghiệp do công ty mẹ - Vinacafe nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ...
Cũng theo đề án, thoái 100% vốn của công ty mẹ - Vinacafe tại các công ty cổ phần: Xây dựng Đồng Tâm; Thương mại Dịch vụ Vinacafe Đắk Lắk; Sản xuất phân vi sinh Vinacafe; Giống cây trồng Tây Nguyên; Xuất nhập khẩu cà phê Đức Nguyên; Xuất nhập khẩu càphê Intimex Nha Trang.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê Ea Tul được chuyển giao nguyên trạng về Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk; thực hiện phá sản với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vinacafe Quảng Trị.

Tìm hiểu về vị chát Prime

Đầy tự tin, khi đó, ông Nghĩa nói với báo giới rằng Prime cũng “đang chuẩn bị cho việc IPO vào cuối năm”, tiến tới niêm yết trên sàn chứng khoán. Kế hoạch đó, cho đến nay vẫn chưa thể thành hiện thực. Nhưng, giữa bầu không khí vẫn còn hân hoan về việc đã và đang hình thành một lực lượng “doanh nghiệp dân tộc” đầy tiềm lực, Prime đã tiếp tục duy trì hình ảnh đẹp cho tới ngày tập đoàn Siam Cement Group (SCG) của Thái Lan công bố thương vụ mua tới 85% cổ phần.
Thương vụ bán 85% cổ phần cho đối tác ngoại của tập đoàn Prime (Prime Group) đem lại nhiều cảm xúc day dứt, cho chính những ai biết về Prime và những gì tập đoàn này đã từng làm được.
Từ “Vĩnh Phúc” đến Prime
Prime đã tiếp tục duy trì hình ảnh đẹp cho tới ngày tập đoàn Siam Cement Group (SCG) của Thái Lan công bố thương vụ mua tới 85% cổ phần
“Câu chuyện Prime” của người viết bắt đầu từ cách đây gần chục năm, khi đến làm việc tại Vụ Vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Một lãnh đạo vụ này khi đó nói: “Hôm nào có điều kiện, anh mời các nhà báo lên Vĩnh Phúc một chuyến. Trên đấy có “thằng” Vĩnh Phúc (nguyên văn - PV) làm gạch hay lắm. Tư nhân, nhưng quản lý giỏi, mở rộng liên tục”.
“Thằng Vĩnh Phúc” trong câu chuyện năm nào là cách nói mang tính thân mật, nhưng là để nói về Công ty TNHH Vĩnh Phúc, tiền thân của Prime Group. Như rất nhiều câu chuyện khởi nghiệp khác, rất nhiều doanh nhân đã lấy tên địa phương mình, hoặc gia đình mình, đặt tên cho doanh nghiệp. Khi đó, kiến trúc sư của Prime, ông Nguyễn Thế Vinh, cũng nghĩ đơn giản như vậy.
Sau này, vào năm 2009, khi kỷ niệm 10 năm thành lập của đứa con giờ đã mang tên mới là Prime, điều ông Vinh đã có thể tự tin nói với nhân viên, ấy là nếu có khát vọng, thì bắt đầu từ những gì bé nhỏ, cũng có thể làm nên nghiệp lớn. Ít người biết, thuở nhỏ, ông Nguyễn Thế Vinh, Chủ tịch Prime Group bây giờ thường hay lui tới những lò gốm thủ công và nhận thấy rằng từ đất đá có thể thành nhiều công trình đẹp.
Lớn lên, ông Vinh chọn học nghề xây dựng chuyên ngành vật liệu, và dù khởi nghiệp với nghề thi công các công trình xây dựng, ông vẫn luôn đam mê với các loại vật liệu xây dựng và luôn cố gắng tìm kiếm những vật liệu nào tốt cho công trình của mình. Nói không quá, với vị doanh nhân có vẻ ngoài như một giáo sư, dường như nghề đã chọn người.
Trước năm những năm 90, tất cả gạch men đều phải nhập khẩu. Vậy là ông Vinh quyết tâm bắt tay vào việc xây dựng nhà máy sản xuất gạch, với mong muốn cung cấp vật liệu nội địa cho nhu cầu xây dựng ngày một phát triển.
Sau 10 năm, từ công suất 2 triệu m2/năm ban đầu, Prime đã mở rộng đầu tư xây dựng hàng loạt nhà máy mới để đón đầu nhu cầu thị trường, trở thành nhà sản xuất gạch men lớn nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 thế giới. Tổng cộng cho đến nay, tập đoàn này đã có 24 công ty thành viên hoạt động trên các lĩnh vực đầu tư kinh doanh chính là vật liệu xây dựng, sản xuất gạch ốp lát, ngói lợp, bình nước nóng, gạch cotto và bất động sản, đầu tư xây dựng và khai thác khu công nghiệp, khu đô thị. Prime đã trở thành 1 trong 10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất tại Việt Nam.
“Người chơi có trách nhiệm”
Những năm 2006-2010, Prime nổi như cồn. Với chính sách giá hợp lý, có phần hơi bình dân, Prime về với tận cùng mọi ngõ ngách tỉnh lẻ, trong khi không hề bỏ qua thị trường đô thị. Được cộng hưởng bởi sự tăng trưởng tốt của thị trường xây dựng nói chung, Prime đạt được những thành công quan trọng trong kinh doanh, qua đó cho phép họ làm được những điều mà nhiều nhà sản xuất khác không làm được.
Giai đoạn đó, ông Nguyễn Thế Vinh thừa nhận rằng ông đã thành công nhờ cả may mắn và liều lĩnh. Nhưng với những người hiểu được ngành vật liệu xây dựng, điều đáng nói nhất ở Prime chính là việc đưa ra được các quyết định đầu tư đúng hướng và đúng thời điểm. Ông Vinh cũng thừa nhận rằng các quyết định đúng lúc, đúng thời điểm đầu tư là yếu tố rất quan trọng đối với sự thành bại của một doanh nghiệp.
Doanh số của Prime đã tăng vọt sau chiến dịch truyền thông "Thịnh vượng là Prime"
Có những minh chứng cho điều này. Trong khi phần lớn các nhà sản xuất khác “dàn hàng ngang” để sản xuất và bán hàng theo phương thức truyền thống, một chiến lược truyền thông tốn kém nhưng hiệu quả với thông điệp “Thịnh vượng là Prime” đã được tiến hành trên truyền hình, giúp phủ sóng nhận diện thương hiệu Prime trên thị trường toàn quốc.
Trước năm 2007, không nhiều người biết đến Prime trong khi những thương hiệu khác như Đồng Tâm hay Viglacera đã quá quen thuộc. Nhưng chỉ với chiến dịch này, mọi thứ đã thay đổi. Một chuyên gia về truyền thông, người đã “đạo diễn” toàn bộ chiến dịch này cho biết tại thời điểm đó, chính các lãnh đạo Prime cũng bất ngờ với kết quả đạt được khi doanh số tăng vọt và đâu đâu cũng thấy nói đến “Thịnh vượng là Prime”.
Câu chuyện thứ hai là việc đầu tư một viện nghiên cứu gốm sứ Việt Nam vào năm 2010, đặt dưới sự quản lý và điều hành của ban lãnh đạo Prime. Thời điểm đó, khái niệm đặt viện nghiên cứu tại doanh nghiệp là một khái niệm đột phá, dù rất nhiều doanh nghiệp thừa sức làm.
Thời điểm đó, Prime dự kiến sẽ đầu tư 70 tỷ đồng để xây dựng viện nghiên cứu này. Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó tổng giám đốc Prime, nói viện sẽ chú trọng đến việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để phục vụ công tác nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm và đặc biệt, sẽ “chú trọng đến việc phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý và cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như có chế độ đãi ngộ thích hợp để các nhà khoa học, nhà quản lý giỏi tham gia hoạt động, cộng tác”.
Công nghệ đã góp phần rất lớn trong thành công của Prime, và việc đầu tư một viện nghiên cứu, tự nó là một thông điệp không thể tốt hơn để minh họa cho mục tiêu dẫn đầu thị trường với tư cách là một “người chơi có trách nhiệm” với ngành vật liệu xây dựng.
Câu chuyện thứ ba phải nhắc tới, là sự góp vốn đầu tư của các đối tác ngoại. Trong cơn say chứng khoán những năm 2007-2008, hàng loạt nhà đầu tư nước ngoài đã tìm đến Prime, trong đó thương vụ đầu tiên và quan trọng nhất chính là việc nhận được khoản đầu tư 20 triệu USD từ quỹ đầu tư của DWS tại Việt Nam, một nhánh của công ty quản lý tài sản Deutsche Asset Management (Asia) Limited, thành viên của tập đoàn ngân hàng Deutsche Bank (Đức).
Nhưng nếu như thương vụ đầu tư của DWS đến vào thời điểm mọi thứ còn khá mơ hồ, thì thương vụ đầu tư của VinaCapital vào tháng 4/2010 đã thực sự đưa Prime lên một tầm vóc mới. Mức giá “bốn chấm” mà VinaCapital đánh giá cổ phiếu của Prime tại thời điểm thị trường đang thoái trào khiến nhiều doanh nghiệp phải ngả mũ.
Đầy tự tin, khi đó, ông Nghĩa nói với báo giới rằng Prime cũng “đang chuẩn bị cho việc IPO vào cuối năm”, tiến tới niêm yết trên sàn chứng khoán. Kế hoạch đó, cho đến nay vẫn chưa thể thành hiện thực. Nhưng, giữa bầu không khí vẫn còn hân hoan về việc đã và đang hình thành một lực lượng “doanh nghiệp dân tộc” đầy tiềm lực, Prime đã tiếp tục duy trì hình ảnh đẹp cho tới ngày tập đoàn Siam Cement Group (SCG) của Thái Lan công bố thương vụ mua tới 85% cổ phần.
Giữa lằn ranh được - mất
SCG đã chính thức công bố việc ký một thỏa thuận mua lại 85% cổ phần của Prime Group với giá 7,2 tỷ Baht, tương đương 4,9 nghìn tỷ đồng. Do kế hoạch “đại chúng hóa” của Prime vẫn còn nửa vời, thật khó để xác định tình hình tài chính của Prime hiện nay, để từ đó đưa ra những nhận xét “đắt - rẻ” về thương vụ. Điều này, chỉ người trong cuộc nắm được. Trên website của Prime, mục quan hệ nhà đầu tư bỏ trống khá lâu nay.
Công luận hiện nay dường như đang xoáy nhiều vào các khoản đầu tư của DWS và VinaCapital, mà giờ đây các tính toán tài chính thuần túy cho thấy các định chế này đã đạt được lợi nhuận khả quan.
Với người viết, “câu chuyện Prime” nên được nhìn nhận theo hướng khác: khi chấp nhận bán tới 85% cổ phần, không thể nói đó là một thương vụ bán cổ phần cho đối tác chiến lược theo cách hiểu thông thường, vì mục tiêu công nghệ, thương hiệu hay thị trường. Về bản chất, đây dường như là thương vụ bán cả doanh nghiệp.
Khi còn ở đỉnh cao, ông Nguyễn Thế Vinh nói ông vừa may mắn vừa liều lĩnh mới có thể “chớp được cơ hội và đón đầu được xu thế”, rằng ban lãnh đạo Prime đã “cùng nhìn về một hướng để cùng mạo hiểm đầu tư quyết liệt mở rộng tập đoàn để giành vị trí dẫn đầu trên thị trường”.
Tâm thế ấy khiến nhiều người tin rằng, khát vọng dẫn đầu thị trường vật liệu xây dựng, khai mở một sự nghiệp kinh doanh lớn với tầm nhìn dài hạn là có thật.
Nay, thì những người từng tin vào Prime có lẽ đang đặt câu hỏi về khoản tiền thu được từ SCG sẽ được dùng làm gì, bao nhiêu phần sẽ được dành để giải quyết các khó khăn tài chính trước mắt, bao nhiêu phần sẽ được tái đầu tư vào gạch ngói hay một lĩnh vực nào đó; hay đơn giản, ông Vinh sẽ “nghỉ chơi” với một tài sản cũng đáng mơ ước với nhiều người, dù đứa con tinh thần của một cuộc đời “gạch ngói” đã thoát xác.
Và với người viết, “câu chuyện Prime” có một vị chát nào đó, giữa những tháng ngày khó khăn chồng chất đang đè nặng đôi vai của những doanh nhân Việt lớn nhỏ!

Chia sẻ với bạn về tập đoàn Đông Nam Á "càn quét" doanh nghiệp Việt

Năm 2008, Ayala thâm nhập thị trường Việt Nam với dự án giảm thất thoát nước vùng 1 của TP. HCM trị giá 44 triệu USD. Tháng 11/2011, liên danh Manila Water, Mitsubishi và CTCP Cơ điện lạnh REE đã đề xuất với Sawaco triển khai dự án tương tự tại các vùng 4, 5 và 6. Tháng 12/2011, Ayala mua lại 49% cổ phần CTCP BOO Nước Thủ Đức từ tay Công ty CP đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP.HCM (CII) với giá 42,6 triệu USD.
Không chỉ các tập đoàn đến từ Mỹ hay châu Âu mà nhiều tập đoàn lớn trong khu vực Đông Nam Á đang thò bàn tay thâu tóm các DN Việt Nam. Nhiều cái tên mới lạ đang gây nên những cú sốc M&A ở Việt Nam.
SCG mua Prime Group với gần 5000 tỷ đồng
Prime Group là tập đoàn đầu tư đa ngành, đầu tư chủ yếu trên các lĩnh vực kinh doanh bất động sản, sản xuất vật liệu xây dựng nhất là gạch ốp lát. Prime Group hiện có công suất 75 triệu m2 gạch mỗi năm và chiếm 20% thị phần gạch trong nước.
Siam Cement Group (SCG) là một DN lớn nhất Thái Lan hoạt động tập trung vào 5 lĩnh vực chính là hóa dầu, giấy, xi măng, vật liệu xây dựng và phân phối.
Mới đây, SCG lại định giá Prime ở mức 280 triệu USD (khoảng 5,8 nghìn tỷ đồng). Mức giá này cao hơn nhiều so với giá trị thực của Prime Group. Được định giá cao, các cổ đông của Prime không ngần ngại bán cổ phần cho Prime, và kết quả là SCG mua lại 85% cổ phần của Prime Group với giá khoảng gần 5 nghìn tỷ đồng.
SCG đã mua lại 85% cổ phần của Prime Group với giá khoảng gần 5 nghìn tỷ đồng
SCG coi Việt Nam thị trường chiến lược và bắt đầu mở rộng hoạt động sang Việt Nam từ năm 1992 và hiện có 17 công ty với tổng giá trị tài sản hơn 370 triệu USD, doanh thu 300 triệu USD với hơn 2.300 nhân viên Việt Nam. Ngoài ra, SCG cũng đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư khác ở Việt Nam như Tổ Hợp Hóa Dầu tại miền Nam Việt Nam.
Tại Việt Nam, SCG hiện đã đầu tư vào khá nhiều công ty như: Công ty sản xuất các sản phẩm và tổ hợp bê tông Việt Nam, Công ty Việt-Thái Plastchem, Công ty TPC Vina, Công ty Chemtech, Công ty Vật liệu nhựa Minh Thái, Công ty giấy Vina Kraft, Công ty New Asia Industries, Công ty cổ phần SX Bao bì Alcamax Packaging, Công ty CPAC Monier Vietnam, Công ty SCG Trading Việt Nam và Công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Bửu Long, Công ty cổ phần nhựa Thiếu niên Tiền Phong và Công ty cổ phần nhựa Bình Minh.
NawaPlastic nắm Nhựa Bình Minh và Nhựa Tiền Phong
Giữa năm 2012, NawaPlastic, một doanh nghiệp liên quan tới SCG, cũng đã gom một lượng lớn cổ phần của Nhựa Bình Minh và Nhựa Tiền Phong.
Nhựa Bình Minh và Nhựa Tiền Phong là 2 doanh nghiệp nhựa xây dựng hàng đầu Việt Nam. Còn The Nawaplastic Industries (Saraburi) Co., Ltd thuộc tập đoàn Thai Plastic and Chemicals.
Công ty nhựa Thái Lan này đã mua vào hơn 9,82 triệu cổ phiếu NTP của Nhựa Tiền Phong và 5,85 triệu cổ phiếu BMP của Nhựa Bình Minh. Như vậy, hiện tại, Nawaplastic đang nắm giữ 16,7% cổ phần của Nhựa Bình Minh và 22,7% cổ phần của Nhựa Tiền Phong và trở thành cổ đông lớn của cả 2 doanh nghiệp sản xuất ống nhựa xây dựng hàng đầu trong nước.
Wilmar và thị trường dầu ăn Việt Nam
Simply là một trong những thương hiệu nổi tiếng của Calofic - doanh nghiệp chiếm trên 55% thị phần dầu ăn đóng chai tại VN
Wilmar là một trong những doanh nghiệp lớn nhất Singapore về vốn hóa thị trường và doanh thu đồng thời là một trong những doanh nghiệp lớn nhất châu Á trong lĩnh vực nông nghiệp. Hiện nay, Wilmmar là công ty lớn nhất thế giới về trồng, chế biến và kinh doanh dầu cọ với mạng lưới phân phối tại hơn 50 quốc gia. Tại Trung Quốc, Wilmar là nhà sản xuất dầu ăn đóng chai lớn nhất với khoảng 50% thị phần.
Wilmar nắm 68% cổ phần của Công ty Dầu thực vật Cái Lân (Calofic). Calofic chiếm khoảng trên 55% thị phần dầu ăn đóng chai. Các sản phẩm dầu ăn của Calofic nổi tiếng gồm gồm có Neptune, Simply, Meizan...
Năm 2011, Calofic đạt hơn 10.500 tỷ đồng doanh thu và 250 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, bỏ xa doanh nghiệp có thị phần thứ 2 là Tường An với doanh thu và lợi nhuận năm ngoái là hơn 4.400 tỷ và 25 tỷ đồng.
Tại Việt Nam, Wilmar còn một công ty con khác là Công ty Wilmar Agro Việt Nam, trụ sở chính tại Cần Thơ với hoạt động chính là kinh doanh cám gạo và cám gạo giàu đạm với thương hiệu Cám Vàng, được cung cấp cho các đơn vị sản xuất thức ăn gia súc và thủy sản cả nước. Năm 2011, Wilmar Agro Vietnam đạt gần 1.000 tỷ doanh thu và 42 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế.
Ayala và kế hoạch thâu tóm ngành nước TP.HCM
Ayala là một trong những tập đoàn tư nhân lớn và giàu truyền thống nhất tại Philippines với tổng tài sản 8,5 tỉ USD, hoạt động trong các lĩnh vực bất động sản, cung cấp và phân phối nước sạch, tài chính ngân hàng và viễn thông.
Năm 2008, Ayala thâm nhập thị trường Việt Nam với dự án giảm thất thoát nước vùng 1 của TP. HCM trị giá 44 triệu USD. Tháng 11/2011, liên danh Manila Water, Mitsubishi và CTCP Cơ điện lạnh REE đã đề xuất với Sawaco triển khai dự án tương tự tại các vùng 4, 5 và 6. Tháng 12/2011, Ayala mua lại 49% cổ phần CTCP BOO Nước Thủ Đức từ tay Công ty CP đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP.HCM (CII) với giá 42,6 triệu USD.
Tháng 4/2012, TGĐ Manila Water là ông Gerardo C. Ablaza, Jr. đã được bầu vào HĐQT của CII. Tháng 5/2012, tập đoàn này đã mua 10% cổ phần CP của CII và Manila Water, một công ty con của Ayala đang là đối tác của CII và Công ty đầu tư tài chính nhà nước TP.HCM (HFIC) trong các dự án xây dựng nhà máy nước và mạng phân phối nước.
Maybank bước chân vào chứng khoán ngân hàng
Tháng 8/2012, Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim Eng Việt Nam (KEVS) đổi tên thành Công ty Cổ phần Chứng khoán Maybank Kim Eng. Hiện tại Maybank Kim Eng Holding Singapore, công ty con của Maybank đang sở hữu 49% vốn tại Công ty chứng khoán Maybank Kim Eng Việt Nam, số cổ phần còn lại do 4 nhà đầu tư cá nhân trong nước nắm giữ. Tuy nhiên, đói tác nước ngoài đã bày tỏ tham vọng nắm 100% tại DN này để thành công ty chứng khoán ngoại đầu tiên trên thị trường Việt Nam.
Triển khai hoạt động tại Việt Nam từ năm 2008, Maybank Kim Eng là một trong số ít các công ty chứng khoán tại Việt Nam có lãi ngay trong năm đầu hoạt động chỉ từ dịch vụ môi giới chứng khoán. Hiện nay, Maybank Kim Eng là nhà môi giới lớn thứ 4 tại Việt Nam.
Ngoài chứng khoán, Maybank hiện đang có góp vốn với tỷ lệ tối đa lên tới 20% trong Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình.
Jollibee thống trị Highlands Coffee và phở 24
Thông tin Highlands Coffee mua 100% cổ phần của Phở 24 vào đầu năm 2012 cũng khiến không ít người ngạc nhiên. Phở 24 là một trong những mô hình franchise thành công tại Việt Nam.
Phở 24 - một trong những mô hình franchise thành công tại Việt Nam nay đã hoàn toàn thuộc DN ngoại
Highlands Coffee, sau khi sở hữu 100% cổ phần thương hiệu "Phở 24", ngay lập tức đã bán 50% cổ phần cho Jollibee (Philippines). Giao dịch có giá trị 25 triệu USD thông qua Jollibee Worldwide - thành viên Tập đoàn Jollibee. Có thông tin cho rằng, việc mua lại Phở 24 chỉ là bước đầu của lộ trình thâu tóm toàn bộ Highlands lẫn Phở 24 của Jollibee để tham gia lâu dài ở Việt Nam. Nếu Jollibee (Philippines) khai thác thương hiệu Phở 24 qua Highlands Coffee cho toàn bộ chuỗi bán lẻ của họ, dòng tiền tương lai có thể rất lớn.

Cùng bạn tìm hiểu về các "Bí kíp" thắng kiện của Vinamit: Bơi ngược dòng

“Đưa hàng vào siêu thị, đầu tư vào quảng bá thương hiệu, tự động mở cửa hàng trên mạng, hình thành chương trình nhận diện thương hiệu, nói cách khác là phải đặt chân thực sự vào thị trường đó… ”, ông Viên chia sẻ và cho rằng, Trung Nguyên thất bại chính là vì chỉ có 1 thương hiệu, nên khi đi chính ngạch lại không chống được biên mậu. 
Tòa án Thương mại Bắc Kinh (Trung Quốc) đã chính thức tuyên thu hồi thương hiệu “Đức Thành” của ông Xie Hong Yi trả về cho Công ty cổ phần Vinamit (Việt Nam). Đây là thành quả của hành trình kiện tụng qua 3 phiên tòa, kéo dài ròng rã 4 năm trời của Vinamit…
Nhọc nhằn đòi thương hiệu
Tiếp khách tại văn phòng nhỏ gần trung tâm TP.HCM, khuôn mặt của ông Nguyễn Lâm Viên, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc Vinamit vẫn chưa hết mệt mỏi sau những cuộc đấu trí trên đất người, nhưng ánh mắt thì ngời ngời hy vọng.
Chiến thắng của Vinamit tại thị trường Trung Quốc không chỉ là một nước cờ chốt, phân định trái - phải rạch ròi, mà quan trọng hơn, theo ông Viên, 10 thương hiệu thực phẩm, cà phê và trái cây sấy mà Vinamit đang sở hữu như V Coffee, Jack, Đức Thành, Regina, Vinatural… sẽ được tiếp sức để phát triển mạnh mẽ. 
Ông Viên kể, vào năm 1997, sau khi gây dựng Vinamit nên hình, nên dạng và có chỗ đứng ở thị trường nội địa, ông đưa Vinamit sang thị trường Trung Quốc.
Lúc đó, đường biên mậu ở các cửa khẩu như Lào Cai, Móng Cái… và bàn tay của các nhà buôn là con đường chính đưa Vinamit ra ngoài biên giới Việt Nam. 
“Tôi là người phòng xa. Năm 1993, tôi đã đăng ký bảo hộ độc quyền thương hiệu Vinamit ở Việt Nam. Khi bắt đầu bước chân sang thị trường Trung Quốc, tôi chủ động đăng ký thương hiệu Vinamit, nhưng cuối cùng vẫn bị “dính đòn”.
Đơn giản là, vì Vinamit là tên Việt Nam, trong khi luật pháp của Trung Quốc yêu cầu các sản phẩm phải có tên bản địa bên cạnh tên gốc. Khi tôi sực nhớ ra cần phải đăng ký bảo hộ độc quyền thương hiệu của mình với tên bản địa cho sản phẩm thì mới biết đã có người khác đăng ký”, ông kể lại những ngày đầu phát hiện thương hiệu Đức Thành, vốn là thương hiệu phổ biến tại Trung Quốc của Công ty Vinamit, bị người khác nẫng tay trên. 
Lúc đó, ông Viên không biết rằng, chính đối tác phân phối của mình là người đã đi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu hầu hết các thương hiệu Việt Nam, trong đó có thương hiệu Đức Thành, tại thị trường Trung Quốc. Họ làm vậy để tìm cách bán lại với giá rất cao hoặc sản xuất hàng giả thương hiệu Việt Nam. 
Mọi việc bắt đầu vào năm 2007, khi ông Viên thấy một văn bằng đăng ký thương hiệu Đức Thành, nhưng do người khác sở hữu. Nếu không chiến đấu giành lại thương hiệu, Vinamit sẽ phải đối đầu với nguy cơ sản phẩm bị đánh bật khỏi siêu thị, thậm chí, lãnh đạo của Vinamit có nguy cơ ngồi tù, nếu người sở hữu kia khởi kiện với cơ quan chức năng Trung Quốc. Theo luật pháp Trung Quốc, tội làm giả thương hiệu có thể sẽ bị ngồi tù 5 năm. 
Chỉ hai năm sau, năm 2009, điều mà ông Viên lo lắng đã hiển hiện. Vinamit hầu như không kiểm soát được thị trường đầy tiềm năng này và đối mặt với nguy cơ mất trắng.
“Không thể chậm trễ hơn, năm 2010, chúng tôi quyết định xác lập chiến lược kinh doanh lâu dài tại thị trường Trung Quốc bằng việc chính thức thành lập công ty tại Quảng Châu (Trung Quốc), xây dựng các văn phòng đại diện chính thức tại Nam Ninh, Bắc Kinh và Thượng Hải. 

Việc trực tiếp bán sản phẩm nhập chính ngạch cho các hệ thống siêu thị lớn nhất tại Trung Quốc như Wal-mart, Carre Four hoặc Lotus sẽ làm gia tăng mạnh mẽ sức mạnh của không chỉ của Vinamit, mà còn cả hàng hóa và thương hiệu Việt Nam”, ông Viên nói. 
Tuy nhiên, chính từ quyết định này của ông Viên, mâu thuẫn với đối tác truyền thống biên mậu “bùng nổ” và âm mưu muốn thôn tính, nắm giữ độc quyền tại thị trường Trung Quốc của họ chính thức bộc lộ bằng cách công bố thương hiệu Đức Thành là của họ, không phải của Vinamit, đánh bật Vinamit khỏi cả hệ thống siêu thị, lẫn chợ truyền thống. 
“Chúng tôi phải lựa chọn. Thứ nhất là ngồi vào đàm phán để thương thảo. Với giải pháp này, tôi biết chắc là không khả thi, khi đối tác lộ rõ thâm ý không muốn cuộc chơi sòng phẳng. Thứ hai là khởi kiện. Và tôi quyết định phải theo đến cùng”, ông Viên nhớ lại. 
Trong quyết định của Tòa án Nhân dân cấp trung thứ 1 Thành phố Bắc Kinh có đoạn: “Ông Xie Hong Yi - một thương nhân Trung Quốc - có lẽ biết được Công ty Vinamit đã có thương hiệu nổi tiếng và đã giành đăng ký trước, tạo nên hành vi bất chính là tranh giành đăng ký thương hiệu, điều này đã vi phạm điều thứ 31 trong Luật Thương hiệu, theo quy định phải thu hồi lại thương hiệu trên”. 
Kết quả tuyên án này đã chính thức được phán quyết duy trì tại phiên toà lần thứ 3 diễn ra vào ngày 25/12/2012. 
“Bí kíp” bơi ngược dòng 
Lúc này, Vinamit đã an tâm bước đầu với thương hiệu Đức Thành tại thị trường Trung Quốc. Gọi là bước đầu, bởi 10 thương hiệu, nhãn hiệu mà Vinamit đang sở hữu cũng không phải đã an toàn trước rất nhiều sự cạnh tranh không sòng phẳng.
Nhất là khi hầu hết con đường mà sản phẩm Việt Nam chọn để tiếp cận thị trường rộng lớn Trung Quốc lại chủ yếu bắt đầu từ đường tiểu ngạch. 
Hiện nay, người tiêu dùng Trung Quốc có xu hướng chuộng đồ ngoại, đặc biệt là nông sản và thực phẩm của Việt Nam. Do vậy, việc sẽ có nhiều thương hiệu Việt bị đăng ký, chiếm giữ tại Trung Quốc là điều dễ hiểu. Vấn đề là ta có đủ can đảm để đòi lại cho mình hay không? 
Nhìn lại chặng đường dài của Vinamit, ông Viên đã ví cách đi chính ngạch và việc đòi lại thương hiệu của doanh nghiệp Việt khó như bơi ngược dòng.
“Triết lý thoát hiểm của tôi là, khi bắt buộc phải bơi qua sông có dòng nước ngược, cách duy nhất là mượn lực của dòng nước để qua sông, có thể bơi xéo qua dòng, đích sẽ xa hơn bơi thẳng, nhưng quan trọng là an toàn”, ông nói. 
Muốn bảo vệ thương hiệu thì yêu cầu đầu tiên là hàng phải đi chính ngạch (bình quân chi phí chính ngạch sẽ cao hơn biên mậu 20%). Bài học để cân bằng chính ngạch với biên mậu của Vinamit là nâng giá biên mậu lên và đưa thương hiệu cấp thấp theo thị trường này.
Doanh nghiệp tập trung đưa thương hiệu mạnh, bảo đảm hàng chính ngạch chất lượng cao hơn hẳn, có chế độ giá để giúp các nhà phân phối có được lợi nhuận phù hợp yêu cầu đề ra. 
“Vinamit thành lập văn phòng chính tại Quảng Châu, tổ chức chăm sóc và giới thiệu tên văn phòng trên sản phẩm chính ngạch. Còn hàng tiểu ngạch thì giao cho một văn phòng của đối tác và trên sản phẩm cũng để tên của đối tác này. Khi đó, người tiêu dùng sẽ có thể so sánh và thường thích hàng chính ngạch hơn vì chất lượng được bảo đảm”, ông Viên tiết lộ. 
Thậm chí, Vinamit đã tự đúc rút mẹo kinh doanh nhỏ để tự bảo vệ mình, đó là khi có đối tác đàm phán mua hàng của mình, nên kéo dài thời gian đàm phán để đi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở thị trường trước khi chính thức đặt bút ký bán sản phẩm. 
Một điểm quan trọng khác để kéo nhà phân phối ủng hộ Vinamit là tạo ra nhiều tầng giá cho các nhà phân phối để họ có lợi nhuận khi bán hàng của mình.
“Đưa hàng vào siêu thị, đầu tư vào quảng bá thương hiệu, tự động mở cửa hàng trên mạng, hình thành chương trình nhận diện thương hiệu, nói cách khác là phải đặt chân thực sự vào thị trường đó… ”, ông Viên chia sẻ và cho rằng, Trung Nguyên thất bại chính là vì chỉ có 1 thương hiệu, nên khi đi chính ngạch lại không chống được biên mậu. 
Hơn thế, ông Viên cũng xác định rõ ràng vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. “Tôi liên lạc trực tiếp với Chính phủ Trung Quốc để yêu cầu trợ giúp, vì Vinamit đặt văn phòng trên đất nước của họ.
Phải biết khôn khéo, mượn sức dòng chảy để đạt mục tiêu của mình. Mục tiêu của tôi là, thương hiệu hàng hóa Việt Nam phải được bảo vệ không chỉ ở thị trường Việt Nam”, ông nói và khẳng định, mình không chỉ là doanh nhân Việt Nam, mà còn là một doanh nhân ASEAN+1.